Đề bài: Phân tích tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong Bình Ngô đại cáo
Phân tích tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong Bình Ngô đại cáo
I. Dàn ý Phân tích tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong Bình Ngô đại cáo (Chuẩn)
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo”.
2. Thân bài:
a. Trình bày khái quát về tác giả, tác phẩm:
– Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là người văn võ song toàn, một anh hùng dân tộc, một nhà thơ trữ tình sâu sắc với những sáng tác có sự hòa quyện giữa tấm lòng yêu nước thương dân và tấm lòng nhân nghĩa.
– “Bình Ngô đại cáo” được tác giả viết vào cuối năm 1727 đầu năm 1428 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước Việt Nam.
b. Phân tích tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo”:
– Tư tưởng độc lập ở đoạn 1:
+ Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa: Làm yên lòng dân và trừ bạo
+ Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc ở nhiều phương diện như lãnh thổ, phong tục, văn hiến lịch sử, triều đại chế độ, con người.
+ Tác giả đã cho thấy sự tồn tại hiển nhiên lâu đời của một nước Đại Việt độc lập có chủ quyền và có văn hiến.
+ Đặt các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa đồng thời khẳng định niềm tự hào chiến thắng của nhân dân Đại Việt
– Tư tưởng độc lập ở đoạn 2:
+ Tác giả đã vạch rõ âm mưu của kẻ thù và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chúng.
+ Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của bọn giặc Minh đã giết hại những người dân vô tội, bóc lột tàn bạo dã man và hủy hoại cả môi trường sống của con người.
+ Nguyễn Trãi đã viết cáo trạng đanh thép để thể hiện lòng căm thù giặc vô cùng tận của nhân dân.
– Tư tưởng độc lập ở đoạn 3:
+ Tác giả đã lấy hình tượng tướng Lê Lợi có xuất thân bình thường nhưng đã làm nên điều phi thường để thể hiện tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
+ Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân đặc biệt là đề cao vai trò của những người nghèo, những người có địa vị thấp kém trong cuộc khởi nghĩa đã làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa.
+ Khi trận chiến diễn ra, khí thế của quân ta hào hùng như sóng trào, bão cuốn đã khiến cho kẻ thù thất bại thê thảm và nhục nhã.
+ Ta mở đường hiếu sinh, giữ lòng nhân đạo, đó là sách lược để tính kế lâu dài, bền vững cho non sông.
– Tư tưởng độc lập ở đoạn 4:
+ Lời tuyên ngôn và khẳng định chủ quyền của nước Đại Việt.
+ Niềm tin, ý chí của tác giả vào tương lai đất nước thái bình, thịnh trị.
c. Đánh giá:
– Nguyễn Trãi đã tạo nên sự thành công ở khi kết hợp giữa yếu tố chính trị và văn chương để lên án, tố cáo tội ác của giặc, từ đó đưa ra lời khẳng định đanh thép về độc lập chủ quyền của dân tộc.
– Nghệ thuật chính luận tài tình, biện pháp so sánh, đối lập, liệt kê, phóng đại đã cho chúng ta thấy một tài năng uyên bác của Nguyễn Trãi.
3. Kết bài:
– Khái quát lại tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo”.
II. Bài văn mẫu Phân tích tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong Bình Ngô đại cáo (Chuẩn)
Nếu như “Nam quốc sơn hà” được mệnh danh là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên thì “Bình Ngô đại cáo” chính là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam. “Bình Ngô đại cáo” của tác giả Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng độc lập và sự khẳng định về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam chúng ta trước sự xâm lăng của kẻ thù.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là người văn võ song toàn, một anh hùng dân tộc, một nhà văn chính luận kiệt xuất, một nhà thơ trữ tình sâu sắc với những sáng tác có sự hòa quyện giữa tấm lòng yêu nước thương dân và tấm lòng nhân nghĩa. “Bình Ngô đại cáo” được tác giả viết vào cuối năm 1727 đầu năm 1428 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn thiên hạ về việc dẹp yên giặc Ngô. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước Việt Nam để khẳng định chủ quyền biên giới và lãnh thổ đất nước.
Ở đoạn một tư tư tưởng độc lập của Nguyễn Trãi được thể hiện ở việc nêu cao tinh thần nhân nghĩa là làm yên lòng dân và trừ bạo. Nguyễn Trãi đã khẳng định lập trường chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa của kẻ thù xâm lược:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Chủ quyền dân tộc đã được tác giả khẳng định ở nhiều phương diện khác nhau như lãnh thổ, phong tục, văn hiến lịch sử, triều đại chế độ, con người. Lãnh thổ Việt Nam phải là một khối thống nhất và toàn diện đã được chia rõ ràng trong sử sách “Núi sông bờ cõi đã chia” với những phong tục đặc trưng của từng vùng miền trên đất Việt. Chúng ta luôn tự hào vì Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời và với Nguyễn Trãi cũng vậy. Với ông nước Đại Việt “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” nên nhất định không thể để cho quân địch thao túng, làm phai nhòa đi bản sắc dân tộc của con người Việt. Tác giả đã đặt các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa đồng thời khẳng định niềm tự hào chiến thắng của nhân dân Đại Việt. Trải qua bao nhiêu thăng trầm từ thời Triệu, Đinh, Lí, Trần đã biết bao đời gây dựng nên nền độc lập đó chính là niềm tự tôn dân tộc, tự hào khi nước Việt ta có biết bao nhân tài giỏi. Tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ như “vốn xưng”, “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên lâu đời của một nước Đại Việt độc lập có chủ quyền và có văn hiến.
Để khẳng định rõ tư tưởng độc lập và “không có gì quý hơn độc lập tự do”, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ âm mưu của kẻ thù và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chúng.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Chữ “nhân” và “thừa” đã thể hiện rõ luận điệu xảo trá của quân địch, đó cũng chính là hoàn cảnh rối ren, loạn lạc khi một số người lãnh đạo, đứng đầu đất nước có quyền thế trong tay nhưng lại bị lũ giặc mưu mẹo thôn tính. Chính những con người như vậy đã tạo điều kiện cho quân địch “thừa nước đục thả câu” khiến cho nhân dân ta vô cùng căm hận chúng. Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của bọn giặc Minh đã giết hại những người dân vô tội, bóc lột tàn bạo dã man và hủy hoại cả môi trường sống của con người:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Sự tàn bạo của chúng đã giết chết “dân đen” hay những đứa trẻ sơ sinh “đỏ hỏn” cũng không còn một chút tia hy vọng được sống. Chúng không chỉ giết người một cách man rợ, ghê tởm mà chúng còn đánh trăm nghìn thứ thuế vô lí “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi” khiến cho nhân dân ta vô cùng điêu đứng. Chúng còn hủy diệt cả môi trường sống của con người, tàn hại ngay cả giống côn trùng và cây cỏ khiến cho không thứ gì có thể sinh sôi, nảy nở được. Nhân dân ta thật tội nghiệp và đáng thương khi lũ giặc không chỉ tàn bạo mà còn tham lam. Để thỏa mãn lòng tham và thú ăn chơi xa hoa, trụy lạc, quân xâm lược còn bắt nhân dân ta phải lên rừng, xuống biển, đánh đổi cả mạng sống để đem về cho chúng những sản vật quý hiếm của thiên nhiên. Trước nỗi hận thù vô cùng lớn, Nguyễn Trãi đã viết cáo trạng đanh thép để thể hiện lòng căm thù giặc vô cùng tận của nhân dân:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được”.
Có lẽ tội ác mà chúng đã gây ra khiến cho cả nước biển cũng không thể nào rửa được mùi. Vì không chỉ nhân dân oán nhận mà ngay cả đất trời vô tri vô giác cũng không thể nào dung tha được cho tội ác của chúng.
Trong đoạn ba của tác phẩm, tác giả đã tái hiện chân thực cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta để góp phần gây dựng nên nền độc lập:
“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tác giả đã lấy hình tượng tướng Lê Lợi có xuất thân bình thường nhưng đã làm nên điều phi thường để thể hiện tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vị tướng ấy có xuất thân từ “chốn hoang dã” nhưng trong lòng luôn trực trào ý chí căm thù giặc sâu sắc “quyết không đội trời chung”, “thề không cùng sống”, “nếm mật nằm gai” giận đến quên cả ăn, ngày đêm vượt qua gian khó cầu được người hiền tài để hoàn thành sứ mệnh cứu đất nước. Khi lúc quân thù đang mạnh thì nhân dân ta lại phải đối mặt với muôn vàn khó khăn của những ngày đầu khởi nghĩa bởi lực lượng thiếu, nhân tài thiếu, lương thực thì khan hiếm nhưng vua Lê Lợi vẫn một lòng không nản chí, dâng cao tinh thần khắc phục khó khăn để chiến đấu. Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân đặc biệt là đề cao vai trò của những người nghèo, những người có địa vị thấp kém trong cuộc khởi nghĩa đã làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa. Sức mạnh đoàn kết, ý chí khắc phục gian nan của nhân dân ta “Tướng sĩ một lòng phụ tử”, “nhân dân bốn cõi một nhà” đã tạo nên chiến thắng vang dội. Trong trận Bồ Đằng, trận Trà Lân, khí thế của quân ta hào hùng như sóng trào, bão cuốn “Sấm vang chớp giật”, “trúc chẻ tro bay” đã khiến cho kẻ thù thất bại thê thảm và nhục nhã. Ta mở đường hiếu sinh tha tội chết cho quân giặc đầu hàng, giữ lòng nhân đạo cấp thuyền cấp, lương ăn, cấp ngựa cho quân bại trận bởi đó là sách lược để tính kế lâu dài, bền vững cho non sông.
Ở đoạn cuối của tác phẩm, tác giả đã mở ra một chương mới cho lịch sử dân tộc khi đất nước được hòa bình, nhân dân được hưởng ấm no, hạnh phúc:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
… Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.”
Có thể coi đây là lời tuyên ngôn và khẳng định chủ quyền của nước Đại Việt. Tác giả vui mừng, nhân dân phấn khởi khi “Xã tắc từ đây vững bền”, “Giang sơn từ đây đổi mới” khi nhân dân ta không còn phải chịu sự hạch sách, áp bức bóc lột tàn bạo của quân địch nữa. Tác giả đã thể hiện niềm tin, ý chí của mình vào tương lai đất nước thái bình, thịnh trị khi “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Đây chính là kết quả của sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để tạo nên nền độc lập vững chắc, lâu bền.
Nguyễn Trãi đã tạo nên sự thành công ở khi kết hợp giữa yếu tố chính trị và văn chương để lên án, tố cáo tội ác của giặc, từ đó đưa ra lời khẳng định đanh thép về độc lập chủ quyền của dân tộc. Qua tác phẩm, ta thấy được một tấm lòng yêu nước thương dân và một tài năng uyên bác của Nguyễn Trãi khi sử nghệ thuật chính luận tài tình, biện pháp so sánh, đối lập, liệt kê, phóng đại để nêu cao tinh thần yêu nước.
Tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo” chính là tư tưởng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Bởi vậy mà, “Bình Ngô đại cáo” luôn được coi là một áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. Trong thời đại hiện nay, tuy chiến tranh đã kết thúc nhưng lòng yêu nước và tinh thần độc lập dân tộc vẫn luôn được nhân dân ta kế thừa và phát huy qua từng thế hệ.
—
—————–Tổng kết——————
Trên đây là Phân tích tư tưởng độc lập được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo”. Hi vọng qua bài viết này, các em sẽ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự độc lập, tự do đối với mỗi quốc gia. Để giúp các em hiểu bài hơn thì mời các em cũng tham khảo những bài viết sau: Phân tích tội ác của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo; Phân tích luận đề chính nghĩa trong đoạn đầu Bình Ngô đại cáo, Thuyết minh Bình Ngô đại cáo, Cảm nhận về Bình Ngô đại cáo đoạn 1.